Cây Bạch truật là cây thảo, sống lâu năm, có thân rễ to, mọc dưới đất. Thân thẳng, cao 0,30 0,80m, đơn độc hoặc phân nhánh ở bộ phận trên, phần dưới thân hóa gỗ. Lá mọc cách, dai. Lá ở phần dưới của thân có cuống dài, phần trên có cuống ngắn, gốc lá rộng, bọc lấy thân. Phiến lá xẻ sâu thành 3 thùy, thùy giữa rất lớn, hình trứng tròn, hai đầu nhọn, hai thùy bên nhỏ hơn, hình trứng müi mác, phần gốc không đối xứng. Các lá ở gần ngọn thân có phiến nguyên, hình thuôn hoặc hình trứng müi mác. Đầu lớn, phần dưới có một lá bắc hình lá xẻ sâu, hình lông chim.
Ảnh hưởng của thuốc lên khả năng lái xe và vận hành máy móc
Chưa có nghiên cứu nào được thực hiện về tác động trên khả năng lái xe và vận hành máy móc. Tuy nhiên, có thể gặp các tác dụng không mong muốn (ví dụ phản ứng dị ứng, chóng mặt, co giật), có thể ảnh hưởng đến khả năng lái xe và vận hành máy móc (xem phần TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN).
Sử dụng thuốc cho phụ nữ trong thời kỳ mang thai và cho con bú
Các nghiên cứu trên động vật không cho thấy các tác dụng có hại trực tiếp hoặc gián tiếp đối với thai kỳ, sự phát triển của phôi/thai, sự sinh đẻ và phát triển sau sinh. Các dữ liệu còn hạn chế về việc sử dụng amoxicillin/acid clavulanic trong thai kỳ ở người không cho thấy tăng nguy cơ dị tật bẩm sinh. Trong một nghiên cứu đơn trên những phụ nữ vỡ màng rau sớm trước kỳ sinh, đã có báo cáo là điều trị dự phòng với amoxicillin/acid clavulanic có thể liên quan với tăng nguy cơ viêm ruột hoại tử ở trẻ sơ sinh. Nên tránh sử dụng thuốc trong thai kỳ, trừ khi được bác sĩ cho là cần thiết.
Cả hai chất này đều được bài tiết qua sữa mẹ (chưa rõ các tác dụng của acid clavulanic đối với trẻ được nuôi bằng sữa mẹ). Do đó, có thể gặp tiêu chảy và nhiễm nấm niêm mạc ở trẻ được nuôi bằng sữa mẹ, vì vậy có thể phải ngừng việc nuôi con bằng sữa mẹ. Amoxicillin/acid clavulanic chỉ nên sử dụng trong thời gian cho con bú sau khi được bác sĩ điều trị đánh giá lợi ích so với nguy cơ.
Trong thực tiễn, các thuốc chống đông dạng uống và kháng sinh penicillin đã được sử dụng một cách rộng rãi mà không có báo cáo nào về tương tác thuốc. Tuy nhiên trong y văn có những trường hợp tăng tỷ số chuẩn hóa quốc tế ở những bệnh nhân được điều trị bằng acenocoumarol hoặc warfarin và được kê đơn một liệu trinh amoxicillin. Nếu cần sử dụng đồng thời, nên theo dõi cẩn thận thời gian prothrombin hoặc tỷ lệ chuẩn hóa quốc tế với sự cộng thêm hoặc ngừng amoxicillin. Ngoài ra, có thể cần điều chỉnh liều thuốc chống đông dạng uống (xem các phần CẢNH BÁO VÀ THẬN TRỌNG ĐẶC BIỆT KHI SỬ DỤNG và TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN).
Penicillin có thể làm giảm sự bài tiết methotrexate, có khả năng làm tăng độc tính.
Không khuyến cáo sử dụng đồng thời với probenecid. Probenecid làm giảm sự bài tiết amoxicillin ở ống thận. Sử dụng đồng thời với probenecid có thể dẫn đến tăng kéo dài nồng độ amoxicillin trong máu, mà không phải nồng độ acid clavulanic.
Thuốc Amoksiklav được chỉ định để điều trị các nhiễm khuẩn sau đây ở người lớn và trẻ em:
Viêm xoang do vi khuẩn cấp tính (đã được chẩn đoán xác định).
Đợt cấp của viêm phế quản mạn tính (đã được chẩn đoán xác định).
Viêm phổi mắc phải trong cộng đồng.
Nhiễm khuẩn da và mô mềm, đặc biệt là viêm mô tế bào, vết cắn của động vật, áp xe răng nặng có viêm mô tế bào lan tỏa.
Nhiễm khuẩn xương và khớp, đặc biệt là viêm tủy xương.
Nên xem xét hướng dẫn chính thức về việc sử dụng các thuốc kháng khuẩn thích hợp.
Nhóm dược lý trị liệu: Thuốc kháng khuẩn nhóm beta-lactam; phối hợp kháng sinh penicillin với chất ức chế beta-lactamase.
Amoxicillin là một Penicillin bán tổng hợp (kháng sinh nhóm beta-lactam), ức chế một hoặc nhiều enzyme (thường được gọi là các protein gắn penicillin - PBP) trong đường sinh tổng hợp peptidoglycan của vi khuẩn - là một thành phần cấu trúc không thể thiếu của thành tế bào vi khuẩn. Sự ức chế tổng hợp peptidoglycan dẫn đến làm yếu thành tế bào, điều này thường được theo sau bởi sự ly giải tế bào và chết tế bào.
Amoxicillin dễ bị thoái biến bởi beta-lactamase được tạo ra do các vi khuẩn đề kháng, vì vậy phổ hoạt tính của Amoxicillin đơn độc không bao gồm những sinh vật sản xuất các enzyme này.
Acid clavulanic là một beta-lactam có cấu trúc liên quan về cấu trúc với cấu trúc của Penicillin. Nó làm bất hoạt một số enzym beta-lactamase, do đó ngăn ngừa sự mất hoạt tính của Amoxicillin. Acid clavulanic đơn độc không tạo ra tác dụng kháng khuẩn hữu ích trên lâm sàng.
Mối quan hệ Dược động học/Dược lực học (PK/PD): Thời gian trên nồng độ ức chế tối thiểu (T>MIC) được cho là yếu tố quyết định chính về hiệu quả của Amoxicillin.
Hai cơ chế chính của sự đề kháng đối với Amoxicillin/Acid clavulanic là:
Bất hoạt do các beta-lactamase của vi khuẩn mà bản thân chúng không bị ức chế bởi acid clavulanic, bao gồm các nhóm B, C và D.
Biến đổi của protein gắn Penicillin (PBP) làm giảm ái lực của thuốc kháng khuẩn đối với mục tiêu.
Tính không thấm của vi khuẩn hoặc cơ chế bơm thuốc ra có thể dẫn đến hoặc góp phần vào tính đề kháng của vi khuẩn, đặc biệt đối với các vi khuẩn gram âm.
Các nồng độ ngưỡng ức chế tối thiểu đối với Amoxicillin/Acid clavulanic theo Thử nghiệm của ủy ban Châu âu về tính nhạy cảm kháng khuẩn (EUCAST).
Nồng độ ngưỡng nhạy cảm (µg/ml)
Staphylococci2 âm tính với coagulase
Nồng độ ngưỡng không liên quan đến loài1
1 Các giá trị ghi nhận được là cho nồng độ Amoxicillin, đối với mục đích thử nghiệm tính nhạy cảm, nồng độ acid clavulanic được cố định ở 2 mg/l.
2 Các giá trị ghi nhận được là cho nồng độ Oxacillin.
3 Giá trị nồng độ ngưỡng trong bảng được dựa vào giá trị nồng độ ngưỡng của Ampicillin.
4 Nồng độ ngưỡng đề kháng R > 8mg/l đảm bảo rằng tất cả các phân lập với các cơ chế kháng thuốc được báo cáo đề kháng.
5 Các giá trị nồng độ ngưỡng trong bảng là dựa trên nồng độ ngưỡng của Benzylpenicillin.
Sự đề kháng kháng sinh có thể thay đổi theo từng vùng địa lý và thời gian đối với các loài vi khuẩn chọn lọc và thông tin về sự đề kháng ở địa phương là cần thiết, đặc biệt khi điều trị các bệnh nhiễm trùng nặng.
Khi cần thiết nên hỏi ý kiến chuyên gia về thông tin đề kháng kháng sinh ở địa phương khi có nghi ngờ về tính hữu dụng của kháng sinh trong vài trường hợp nhiễm trùng.
Vi khuẩn hiếu khí gram dương: Enterococcus faecalis, Gardnerella vaginalis, Staphylococcus aureus (nhạy cảm - methicillin)£ , âm tính-coagulase staphylococci (nhạy cảm methicillin)£, Streptococcus agalactiae, Streptococcus pneumoniae1, Streptococcus pyogenes và các beta-haemolytic streptococci, nhóm Streptococcus viridans.
Vi khuẩn kỵ khí gram âm: Capnocytophaga spp., Eikenella corrodens, Haemophilus influenzae2, Moraxella catarrhalis, Pasteurella multocida.
Vi khuẩn kỵ khí: Bacteroides fragilis, Fusobacterium nucleatum, Prevotella spp.
Các loài có sự đề kháng có thể gây rắc rối
Vi khuẩn hiếu khí Gram dương: Enterococcus faecium$.
Vi khuẩn hiếu khí Gram âm: Escherichia coli, Klebsiella oxytoca, Klebsiella pneumoniae, Proteus mirabilis, Proteus vulgaris.
Vi khuẩn hiếu khí gram âm: Acinetobacter sp., Citrobacter freundii, Enterobacter sp., Legionella pneumophila, Morganella morganii, Providencia spp., Pseudomonas sp., Serratia sp., Stenotrophomonas maltophilia.
Các vi khuẩn khác: Chlamydophila pneumoniae, Chlamydophila psittaci, Coxiella burnetti, Mycoplasma pneumoniae.
$ Nhạy cảm trung gian tự nhiên trong trường hợp không có cơ chế kháng.
£ Tất cả các staphylococci kháng methicillin đều kháng Amoxicillin/Clavulanic acid.
1 Streptococcus pneumoniae nhạy cảm hoàn toàn với penicillin có thể được điều trị bằng Amoxicillin/Clavulanic acid như đã trình bày. Những vi khuẩn cho thấy giảm nhạy cảm với Penicillin không nên được điều trị như đã trình bày.
2 Các chủng giảm nhạy cảm đã được báo cáo ở một vài nước ở EU với tần suất cao hơn 10%.
Amoxicillin và Acid clavulanic phân ly hoàn toàn trong dung dịch nước ở pH sinh lý. Cả hai thành phần này được hấp thu nhanh và tốt bằng đường uống.
Amoxicillin/Acid clavulanic được hấp thu tối ưu khi uống vào đầu bữa ăn. Sau khi dùng đường uống, Amoxicillin và Acid clavulanic có sinh khả dụng khoảng 70%. Dữ liệu về huyết tương của cả hai thành phần tương tự nhau và thời gian đạt đến nồng độ đỉnh trong huyết tương (Tmax) trong mỗi trường hợp khoảng 1 giờ.
Các kết quả dược động học đối với một nghiên cứu trong đó Amoxicillin/Acid clavulanic (viên nén 875mg/125mg dùng 2 lần/ngày) được dùng lúc đói trên những nhóm người tình nguyện khỏe mạnh được trình bày dưới đây.
Nồng độ trong huyết thanh của Amoxicillin và Acid clavulanic đạt được với Amoxicillin/Acid clavulanic giống với nồng độ đạt được khi sử dụng các liều tương đương Amoxicillin hoặc Acid clavulanic đơn độc bằng đường uống.
Khoảng 25% tổng lượng Acid clavulanic trong huyết tương và 18% tong lượng Amoxicillin trong huyết tương gắn kết với protein. Thể tích phân bố biểu kiến khoảng 0.3 - 0.4lít/kg đối với Amoxicillin và khoảng 0.2lít/kg đối với Acid clavulanic.
Sau khi dùng đường tĩnh mạch, cả Amoxicillin và Acid clavulanic được tìm thấy trong túi mật, mô ổ bụng, da, mỡ, mô cơ, dịch hoạt dịch, dịch màng bụng, mật và mủ. Amoxicillin không phân bố thích đáng đầy đủ vào dịch não tủy.
Những nghiên cứu từ động vật cho thấy không có bằng chứng của sự giữ lại trong mô chất dẫn xuất từ thuốc có ý nghĩa thống kê đối với mỗi thành phần.
Amoxicillin, giống như hầu hết các Penicillin, có thể tìm thấy trong sữa mẹ. Các lượng vết Acid clavulanic cũng có thể phát hiện trong sữa mẹ.
Cả Amoxicillin và Acid clavulanic đã được chứng minh là qua được hàng rào nhau thai.
Amoxicillin được thải trừ một phần qua nước tiểu dưới dạng acid penicilloic không có hoạt tính với số lượng tương đương với 10 - 25% của liều ban đầu. Acid clavulanic được chuyển hóa mạnh ở người và được đào thải qua nước tiểu và phân dưới dạng carbon dioxide không khí thở ra.
Đường bài tiết chính đối với Amoxicillin là qua thận, trong khi Acid clavulanic bài tiết chính do các cơ chế qua thận và không qua thận.
Amoxicillin/Acid clavulanic có thời gian bán thải trung bình khoảng một giờ và độ thanh thải toàn phần trung bình khoảng 25 lít/giờ ở những người khỏe mạnh. Khoảng 60 - 70% lượng Amoxicillin và 40 - 65% lượng Acid clavulanic được bài tiết dưới dạng không đổi qua nước tiểu trong 6 giờ đầu sau khi dùng liều đơn viên nén Amoxicillin/Clavulanic 250mg/125mg hoặc 500mg/125mg.
Những nghiên cứu khác nhau đã ghi nhận sự bài tiết qua nước tiểu là 50 - 85% đối với Amoxicillin và trong khoảng 27 - 60% đối với Acid clavulanic sau một khoảng thời gian 24 giờ. Trong trường hợp Acid clavulanic, lượng thuốc lớn nhất được bài tiết trong 2 giờ đầu sau khi dùng thuốc.
Sử dụng đồng thời với probenecid làm chậm sự thải trừ Amoxicillin nhưng không làm chậm sự thải trừ Acid clavulanic qua thận.
Thời gian bán thải của Amoxicillin giống nhau đối với trẻ khoảng 3 tháng đến 2 tuổi, trẻ lớn hơn và người lớn. Đối với trẻ rất nhỏ (bao gồm cả trẻ sinh non) trong tuần đầu tiên của cuộc đời, khoảng cách dùng thuốc không nên vượt quá 2 lần/ngày do đường bài tiết qua thận còn non yếu. Vì những bệnh nhân lớn tuổi có nhiều khả năng bị suy giảm chức năng thận, cần thận trọng khi chọn liều và sự theo dõi chức năng thận có thể hữu ích.
Sau khi dùng Amoxicillin/Acid clavulanic đường uống cho các đối tượng nam và nữ khỏe mạnh, giới tính không ảnh hưởng có ý nghĩa thống kê về các thông số dược động học của Amoxicillin hoặc Acid clavulanic.
Độ thanh thải Amoxicillin/Acid clavulanic toàn phần trong huyết thanh giảm tỷ lệ với giảm chức năng thận. Sự giảm độ thanh thải của thuốc rõ rệt hơn đối với Amoxicillin so với Acid clavulanic, vì tỷ lệ Amoxicillin cao hơn được bài tiết qua đường thận. Vì vậy liều dùng trong suy thận phải ngăn ngừa được sự tích lũy Amoxicillin quá mức trong khi vẫn duy trì nồng độ Acid clavulanic đầy đủ.
Những bệnh nhân bị suy gan nên thận trọng về liều dùng và theo dõi chức năng gan ở những khoảng cách đều đặn.