Xuất nhập khẩu (XNK) có vai trò quan trọng trong nền kinh tế của tất cả các nước trên thế giới. Ở Việt Nam, nguồn thu từ thuế xuất nhập khẩu đóng góp một phần đáng kể vào ngân sách nhà nước. Chính sách thuế XNK không ngừng biến đổi, đặc biệt là sau khi Việt Nam gia nhập WTO đã ảnh hưởng nhiều đến quá trình phát triển đất nước. Với mục đích hiểu rõ hơn về ảnh hưởng chính sách thuế XNK của Việt Nam trước và sau khi gia nhập WTO tới nền kinh tế, chúng em đã quyết định làm tiểu luận về đề tài này. Mục tiêu của bài tiểu luận mà chúng em hướng tới đó là: • So sánh chính sách thuế XNK của nhà nước trước và sau khi gia nhập WTO để thấy được điểm đổi mới trong quá trình phát triển kinh tế đất nước. • Từ những chính sách thuế mới thì cơ hội, khó khăn cho Việt Nam là gì. • Tìm hiểu một một ví dụ về thuế xuất nhập khẩu đối với mặt hàng ô tô để thấy rõ sự biến đổi của nó trước, sau khi gia nhập WTO, ảnh hưởng của chính sách đó. Phương pháp nghiên cứu: tổng hợp, thống kê, phân tích. Phạm vi nghiên cứu : 10 năm trở lại đây
Kinh nghiệm của một số nước trong thu hút và sử dụng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển tăng trưởng kinh tế
Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Trung Quốc
Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Trung Quốc chiếm một phần tư tổng đầu tư vào các nước đang phát triển, góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế ở các nước này. Quy mô trung bình của các dự án năm 1991 là 920000USD, năm1992 là 1190000USD và năm 1993 là 1310000 USD. Từ năm 1992 bắt đầu có sự gia tăng đáng kể trong các dự án vừa hoặc lớn với kỹ thuật tiên tiến trong ngành điện, máy móc, hoá chất, điện tử, vật liệu xây dựng. Các đặc khu kinh tế và khu công nghiệp được xây dựng ngày càng nhiều. Cho đến nay Trung Quốc vẫn là nơi hấp dẫn các nhà đầu tư và Trung Quốc vẫn duy trì mức tăng trưởng cao.
Từ năm 1995, Trung Quốc đã khuyến khích các doanh nghiệp trong nước và các nhà đầu tư của các nước châu Âu thực hiện phương thức hàng đổi hàng nhằm phát triển ngành chế biến nông sản xuất khẩu, góp phần tích cực tạo việc làm cho người lao động nhất là lao động nông thôn. Điều gì đã dẫn đến kết quả hoạt động tốt như vậy của Trung Quốc .Bên cạnh một số nhân tố thuận lợi, Trung Quốc đã có các biện pháp thu hút và sử dụng FDI cho sự phát triển một cách tích cực và kế hoạch. (Tiểu Luận: Xuất khẩu tư bản ở Việt Nam)
Thứ nhất, Trung Quốc đã tạo ra một môi trường khá thuận lợi và ổn định cho các nhà đầu tư, tạo ra mức tin cậy cao nơi họ. Nhờ đó Trung Quốc đã thu hút luồng đầu tư lớn, hình thức và đối tác phong phú. Môi trường đầu tư luôn được cải thiện. Từ năm 1992 các chính quyền địa phương bắt đầu chủ động hơn trong việc thông qua các dự án FDI và đã cung cấp thêm các dịch vụ xã hội cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Nhận ra tâm quan trọng của việc bảo hộ sở hữu trí tuệ, Trung Quốc đã đưa các luật về bản quyền, nhãn mác, sáng chế và các quy định về các phần mềm máy tínhvà gia nhập tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới, Công ước Paris và Công ước bản quyền thế giới để bảo vệ bản quyền công nghiệp. Các điều kiện cơ sở hạ tầng ở các khu vực tập trung nhiều FDI đã được nâng cấp, đặc biệt là ở các khu vực kinh tế và các vùng phát triển kinh tế và công nghiệp.
Thứ hai, FDI ở Trung Quốc được thu hút một cách có kế hoạch. ở giai đoạn đầu FDI được khuyến khích tập trung vào sản xuất công nghiệp là ngành có hệ số tạo việc làm cao tuy nhiên họ cũng đưa ra những hạn chế mới dần dần được tháo bỏ . Chẳng hạn từ năm 1992 sau 13 năm kể từ khi mở cửa, Trung Quốc mới mở rộng lĩnh vực đầu tư trong ngành dich vụ như tài chính , bảo hiểm, bất động sản, du lịch, thương mại.. đặc biệt dịch vụ kế toán, tư vấn và thông tin.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Thái Lan
Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Thái Lan đã góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế ở nước này. Cuối thập kỷ 80, Thái Lan đã thu hút khoảng 30 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài. Vào đầu những năm 90, nền kinh tế Thái Lan luôn giữ ở mức tăng trưởng 8%/ năm. Tuy nhiên vừa qua nước này đã lâm vào cuộc khủng hoảng tài chính trầm trọng mà các nguyên nhân chính là đầu tư quá nhiều vào bất động sản, quản lý vốn nước ngoài quá lỏng lẻo và thu hút vào nền kinh tế quá mức so với khả năng hấp dẫn và sử dụng thực sự. (Tiểu Luận: Xuất khẩu tư bản ở Việt Nam)
Trong ba năm lại đây, nguồn vốn đổ vào Thái Lan là 55 tỷ USD song hầu hết lại được đầu tư vào bất động sản và một số lĩnh vực không phát huy được hiệu quả. Đầu tư những khoản khổng lồ vào bất động sản nhưng chủ yếu để phục vụ tiêu dùng ít tạo ra việc làm có chất lượng cho nền kinh tế, với khả năng sinh lời thấp, chỉ tạo cho mọi người cảm giác giàu có nhưng đó chỉ là sự phồn vinh giả tạo. Điều này có nghĩa là FDI không nhằm vào phát triển mà chỉ để kiếm chênh lệch.
Việc vay tiền nước ngoài với lãi suất thấp quá dễ dàng làm cho các nhà đầu tư ở Thái Lan thiếu chọn lọc lĩnh vực kinh doanh. Một số lĩnh vực có lãi suất rất thấp cũng được đầu tư.
Tình hình dòng vốn FDI trên thế giới và trong khu vực hiện nay:
Có thể nói trong 10 năm trở lại đây, mặc dù có một số biến động song nhìn chung lượng FDI trên toàn thế giới có xu hướng tăng. Năm 1997, con số này vào khoảng 400 tỷ USD với khoảng 70% vào các nước công nghiệp phát triển.Theo cơ quan thương mại và phát triển của Liên Hợp Quốc (UNCTAD), năm 1998, tổng lượng FDI đạt 430 tỷ USD, tăng gần 10% so với năm 1997 nhưng luồng vốn vào các nước đang phát triển lại giảm xuống còn 111 tỷ USD so với 117 tỷ của năm 1997.
Trong khu vực châu á, mức độ cạnh tranh để thu hút trở nên rất gay gắt. Trong số các nước đang phát triển, Trung Quốc là nước thành công nhất với lượng đầu tư thu hút trung bình chiếm tới một nửa tổng số vốn FDI đổ vào các nước đang phát triển. Nguyên nhân chủ yếu là sự hấp dẫn của một thị trường rộng lớn và cải cách kinh tế đạt được nhiều thành tựu nổi bật trong những năm qua. (Tiểu Luận: Xuất khẩu tư bản ở Việt Nam)
Do tác động của cuộc khủng hoảng tiền tệ châu Á, năm 1998 là năm đầu tiên kể từ năm 1985 tổng vốn vào khu vực này tuy đã giảm nhưng không nhiều. Trong đó, khả năng ứng phó dẫn đến mức độ ảnh hưởng của từng nước là khác nhau. Indonesia và Philippines đứng đầu danh sách nhóm nước suy giảm nguồn vốn FDI, trong khi đó Hàn Quốc và Thái Lan, mặc dù chịu nhiều tác động của cuộc khủng hoảng nhất, song vẫn duy trì được lượng vốn lớn. Trên thực tế hai quốc gia này đã tiến hành những cải cách sâu rộng, đã được đánh giá là thành công cả trên bình diện nền kinh tế vĩ mô nói chung và môi trường đầu tư nói riêng.Năm 1998, vốn FDI đăng ký của Thái Lan là 5,9 tỷ USD so với 3,6 tỷ năm 1997 và của Hàn Quốc lần lượt là 4,7 tỷ USD và 3,6 tỷ USD. Cuộc khủng hoảng này cũng làm giảm rõ rệt nguồn cung cấp FDI từ hai quốc gia cung cấp FDI lớn của châu Á là Nhật Bản, Hàn Quốc và một số nước Nics khác.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Tiểu Luận: Xuất khẩu tư bản ở Việt Nam)
Đặc điểm đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment – FDI) là hình thức đầu tư nước ngoài. Sự ra đời và phát triển của nó là kết quả tất yếu của quá trình quốc tế và phân công lao động quốc tế.
Trên thực tế có nhiều cách nhìn nhận khác nhau về đầu tư nước ngoài.Theo hiệp hội luật quốc tế (1966): “Đầu tư nước ngoài là sự di chuyển vốn từ nước của người đầu tư sang nước của người sử dụng nhưng không phải để mua hàng tiêu dùng của nước này mà dùng để chi phí cho các hoạt động có tính chất kinh tế xã hội”. Theo luật Đầu tư nước ngoài Việt Nam ban hành năm 1987 và được bổ sung hoàn thiện sau ba lần sửa đổi “ Đầu tư nước ngoài là việc các tổ chức và cá nhân nước ngoài trực tiếp đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền nước ngoài hoặc bất kỳ tài sản nào được Chính phủ Việt Nam chấp nhận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí nghiệp liên doanh hay xí nghiệp 100% vốn nước ngoài”.
Qua xem xét các định nghĩa về đầu tư nước ngoài có thể rút ra một số đặc trưng cơ bản của đầu tư nước ngoài như sau:
Một là , sự di chuyển vốn từ nước này sang nước khác.
Hai là, vốn được huy động vào các mục đích thực hiện các hoạt động kinh tế và kinh doanh.
Mặc dù có nhiều khác biệt về quan niệm nhưng nhìn chung FDI được xem xét như một hoạt động kinh doanh, ở đó có các yếu tố di chuyển vốn quốc tế và kèm theo nó bao gồm các yếu tố khác. Các yếu tố đó không chỉ bao gồm sự khác biệt về quốc tịch của các đối tác tham gia vào quá trình kinh doanh,sự khác biệt văn hoá, luật pháp mà còn là sự chuyển giao công nghệ , thị trường tiêu thụ… (Tiểu Luận: Xuất khẩu tư bản ở Việt Nam)
Theo luật Đầu tư nước ngoài của Việt Nam, FDI có thể được hiểu như là việc các tổ chức, các cá nhân trực tiếp nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hay bất cứ tài sản nào được chính phủ Việt Nam chấp nhận để hợp tác với bên Việt Nam hoặc tự mình tổ chức các hoạt động kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam. Dưới góc độ kinh tế có thể hiểu FDI là hình thức di chuyển vốn quốc tế trong đó người sở hữu đồng thời là người trực tiếp tham gia quản lý và điều hành hoạt động sử dụng vốn đầu tư.Về thực chất, FDI là sự đầu tư của các công ty ( cá nhân) nhằm xây dựng các cơ sở, chi nhánh ở nước ngoài và làm chủ toàn bộ hay từng phần cơ sở đó.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có các đặc điểm sau:
Thứ nhất , các chủ đầu tư phải đóng góp một khối lượng vốn tối thiểu theo quy định của từng quốc gia. Luật Đầu tư nước ngoài của Việt Nam quy định chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp tối thiểu 30% vốn pháp định của dự án.
Thứ hai, sự phân chia quyền quản lý các doanh nghiệp phụ thuộc vào mức độ đóng góp vốn. Nếu đóng góp 10% vốn thì doanh nghiệp hoàn toàn do chủ đầu tư nước ngoài điều hành và quản lý.
Thứ ba, lợi nhuận của các chủ đầu tư phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh và được phân chia theo tỷ lệ góp vốn sau khi nộp thuế và trả lợi tức cổ phần.
Thứ tư, FDI được thực hiện thông qua việc xây dựng doanh nghiệp mới, mua lại toàn bộ hoặc từng phần doanh nghiệp đang hoạt động hoặc sát nhập các doanh nghiệp với nhau. (Tiểu Luận: Xuất khẩu tư bản ở Việt Nam)
Thứ năm, FDI không chỉ gắn liền với di chuyển vốn mà còn gắn liền với chuyển giao công nghệ, chuyển giao kiến thức và kinh nghiệm quản lý và tạo ra thị trường mới cho cả phía đầu tư và phía nhận đầu tư.
Thứ sáu, FDI hiện nay gắn liền với các hoạt động kinh doanh quốc tế của các công ty đa quốc gia.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể được phân chia theo nhiều tiêu thức khác nhau:
Nếu căn cứ tính chất pháp lý của đầu tư nước ngoài trực tiếp có thể chia đầu tư trực tiếp nước ngoài thành các loại hợp đồng và hợp tác kinh doanh , doanh nghiệp liên doanh,doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Ngoài ra còn có thêm hình thức đầu tư khác đó là hợp đồng xây dựng – kinh doanh- chuyển giao (BOT). Trong các hình thức trên thì doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn là hình thức pháp nhân mới và luật Việt Nam gọi chung là xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Nếu căn cứ vào tính chất đầu tư có thể chia FDI thành hai loại đầu tư tập trung trong khu chế xuất và đầu tư phân tán. Mỗi loại đầu tư trên đều có ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu công nghiệp ở từng quốc gia.
Nếu căn cứ vào quá trình tái sản xuất có thể chia đầu tư trực tiếp nước ngoài thành đầu tư vào nghiên cứu và triển khai, đầu tư vào cung ứng nguyên liệu, đầu tư vào sản xuất, đầu tư vào tiêu thụ sản phẩm..
Nếu căn cứ vào lĩnh vực đầu tư có thể chia FDI thành các loại như đầu tư công nghiệp, nông nghiệp , dịch vụ ..
Theo luật Đầu tư nước ngoài của Việt Nam, các hình thức đầu tư nước ngoài vào Việt Nam bao gồm 3 hình thức như sau:
Hàng đổi hàng – Phương thức đầu tư thu hút nước ngoài quan trọng đối với các nước đang phát triển.
Hàng đổi hàng là phương thức đầu tư mà giá trị của trang thiết bị cung cấp được hoàn trả bằng chính sản phẩm mà các trang thiết bị đó làm ra. Phương thức này liên quan tới hai hợp đồng quan hệ mật thiết với nhau và cân bằng nhau về mặt giá trị.Trong một hợp đồng, nhà cung cấp đồng ý xây dựng nhà máy hoặc cung cấp các công nghệ của nhà máy cho phía đối tác. Trong hợp đồng khác, nhà cung cấp đồng ý mua lại sản phẩm mà công nghệ đó sản xuất ra với khối lượng tương ứng với gía trị thiết bị mà nhà máy đã đầu tư. (Tiểu Luận: Xuất khẩu tư bản ở Việt Nam)
Hàng đổi hàng có vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế của các nước đang phát triển đặc biệt là các nước đang chuyển đổi. Thực tế đã chỉ ra rằng hàng đổi hàng có ý nghĩa quan trọng trong phát triển các ngành công nghiệp chế biến nông sản góp phần ổn định và phát triển kinh tế, tạo việc làm cho người lao động ở các nước đang phát triển. Hàng đổi hàng là phương thức đầu tư mới của các đối tác nước ngoài vào Việt Nam.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở các nước đang phát triển
Trong ba thập kỷ vừa qua, nền kinh tế thế giới đã chứng kiến một sự tăng trưởng đáng kể về luồng vốn FDI. Tổng FDI trung bình hàng năm theo giá trị thị trường hiện nay tăng lên 10 lần, từ 104 tỷ USD trong những năm của thập kỷ 60 lên đến 1173 tỷ USD vào cuối những năm của thập kỷ 80. FDI đã tiếp tục tăng và đạt 1940 tỷ USD năm 1992. Các nước phát triển chiếm từ 68% trong những năm 60 lên đến 80% vào cuối những năm 90 trong tổng số của phần tăng lên của FDI.
Xét về khuynh hướng chung, một trong những nét nổi bật nhất của FDI là việc tăng nhanh lên nhanh chóng và vững bền của những luồng FDI tới các nước đang phát triển. Sau một giai đoạn tương đối đình trệ diễn ra sau các cuộc khủng hoảng nợ và một cuộc suy thoái cho tới giữa những năm 80 (từ năm 1981 – 1985 FDI đến các nước đang phát triển thực tế giảm 4%/ năm), đầu tư vào các nước đang phát triển đã khôi phục mạnh mẽ. Trong những năm cuối thập kỷ 80, FDI tăng 17% một năm và tiếp tục trong những năm 90.Theo báo cáo của Liên Hợp Quốc và Đầu tư thế giới năm 1994, tổng đầu tư FDI vào các nước đang phát triển đạt số kỷ lục là 70 tỷ USD năm 1993, tăng 125% trong ba năm đầu của thập kỷ này. Ngược lại, FDI vào các nước phát triển lại giảm mạnh trong những năm 90. Trong năm 1991, FDI vào các nước OECD giảm 31% và tiếp tục giảm thêm 16% năm 1992. Kết quả là năm 1992 các nước đang phát triển chiếm 32% tổng FDI, trong khi tỷ trọng trung bình là 24% trong những năm 70. Tỷ trọng này tiếp tục tăng, đạt 40% vào năm 1993. Nếu xu hướng này tiếp tục, khối lượng FDI hàng năm vào các nước đang phát triển có thể vượt các nước phát triển trong thời gian không xa. Điều này cho thấy có một sự thay đổi cơ cấu rất lớn không chỉ về hình thức của đầu tư mà còn của sản xuất và thương mại sinh ra từ kết quả đầu tư này.
Xét về mặt cơ cấu, dòng FDI có xu hướng tăng vào khu vực sản xuất và dịch vụ. Trong đó khu vực dịch vụ chiếm ưu thế so với khu vực sản xuất. Ví dụ 51% đầu tư nước ngoài vào Mỹ năm 92 là vào khu vực dịch vụ, so sánh với năm 1981 là 4%. Con số này ở Anh là 40% năm 1992 và 35% năm 1981. Nước Nhật là 56% và 53%. Trong khi phần lớn các hoạt động dịch vụ tập trung ở các nước phát triển, cũng có những dấu hiệu chỉ ra rằng chính sách tự do hoá cũng đã dẫn đến việc tăng đáng kể mức đâù tư FDI vào ngành dịch vụ ở các nước đang phát triển. (Tiểu Luận: Xuất khẩu tư bản ở Việt Nam)
Sự phân bổ về địa lý cho thấy 10 nước đứng đầu về nhận FDI chiếm 76% tổng số FDI vào thế giới thứ ba vào năm 1992, tăng lên so với 70% trong mười năm trước nhưng vẫn thấp hơn 81% đạt được của năm 1981. Điều này có thể giải thích bởi sự tăng lên nhanh chóng của FDI vào Trung Quốc.Nếu năm 1981 khối lượng FDI vào Trung Quốc là không đáng kể thì đến năm 1992 đã chiếm tới một phần tư tông FDI vào các nước đang phát triển.
Chính sách thu hút và quản lý FDI của các nước đang phát triển đã thay đổi mạnh mẽ trong thập kỷ trước. Hiện nay các chính phủ đều khuyến khích FDI theo một cách thức mới chưa tứng có trong lịch sử. Việc chuyển các chính sách kinh tế hướng về thị trường và các chính sách tự do kinh tế đã thu hút và hấp dẫn hơn các nhà đầu tư. Những cố gắng của chính phủ các nước nhằm thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đặc biệt là các dự án vào cơ sở hạ tầng và công trình phúc lợi theo hình thức BOO hay BOT đang tăng nhanh. Việc thực hiện tư nhân hoá và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước cũng là môt phương thức quan trọng để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Trong xu hướng này các nước Châu Mỹ Latinh dẫn đầu các nước đang phát triển.Từ năm 1988 đến 1992 khối lượng FDI trị giá khoảng 8,1 tỷ USD đã được đưa vào các nước châu Mỹ Latinh bởi hình thức mua cổ phần của các doanh nghiệp nhà nước. Khối lượng này chiếm 16% tổng FDI đầu tư vào quốc gia này. Các nước Đông Âu cũng đã thu hút khối lượng đầu tư lớn vào lĩnh vực này khoảng 5,2 tỷ USD trong khoảng thời gian từ năm 1988 đến 1992 tương ứng với 43% trong tổng khối lượng đầu tư vào khu vực. Đầu tư trực tiếp nước ngoài của toàn thế giới đạt 450 tỷ USD vào năm 1995. Trong đó hai phần ba tập trung vào các nước châu Á. Tầm vóc ngày càng lớn và tính năng động của các nước châu Á đã làm cho châu á trở thành thị trường đầu tư quan trọng đối với các công ty đa quốc gia.