Số chủ đạo 11 trong thần số học là người nhạy cảm, có tiềm năng tâm linh cực tốt. Tuy nhiên đây cũng là con số chủ đạo có rất ít người thuộc về con số này.
Vậy những màu lens nào sẽ phù hợp với con số 4 chủ đạo, cùng Lens Xoắn tham khảo nha!
Đây là con số đặc biệt được coi là “Con số vua”. Người mang Con số chủ đạo 22/4 có tiềm năng gần như vô hạn và thường đạt được hầu hết những mục đích có vẻ bất khả thi.
- Mang nhiều trách nhiệm xã hội
- Có nhiều tiềm năng vô hạn để làm những việc bất khả thi.
- Khả năng kiểm soát cảm xúc mạnh mẽ.
Đây là số của người thiên về tư duy và lý luận. Người này nếu có đầu óc nhanh nhạy và tư duy linh hoạt sẽ dễ dàng thành công.
Chắc hẳn qua bài viết này các bạn đã phần nào hiểu hơn về thần số học và ý nghĩa của các con số trong thần số học. Đừng quên theo dõi Lens Xoắn blog để cập nhật thêm nhiều thông tin mới hữu ích nha!Lens Xoắn
Số 5: Tự do và nhạy cảm: Nâu nhạt - mang lại vẻ tự nhiên và nhẹ nhàng, giúp người số 5 thoải mái, phóng khoáng nhưng vẫn giữ được sự tinh tế và giàu cảm xúc.Số 6: Tận tâm và sáng tạo: Xanh rêu - thể hiện sự sáng tạo bình yên và ấm áp, phản ánh tính cách nhân hậu, bao dung của người mang số 6. Số 7: Học hỏi và trải nghiệm: Xanh biển sâu - mang đến cảm giác huyền bí và độc lập, phù hợp với người thích trải nghiệm và có cách nhìn sâu sắc về cuộc sống.Số 8: Độc lập và mạnh mẽ: Đen - thể hiện sự tự tin mạnh mẽ, quyết đoán, rất phù hợp với người số 8 có cá tính mạnh và suy nghĩ phức tạp.
Số 9: Trách nhiệm và lý tưởng: Xanh navy - sự nghiêm túc và trách nhiệm, phù hợp với lý tưởng cao cả của người mang số 9.Số 10: Linh hoạt và lạc quan: Màu xám ánh xanh - mang lại sự tươi sáng, linh hoạt, dễ hòa nhập và mang lại cảm giác lạc quan, năng động cho người có số 10 chủ đạo.Số 11: Tâm linh và tinh tế:
Biểu đồ tên tiếng Anh là gì?
Tương tự với biểu đồ ngày sinh, biểu đồ tên (tiếng Anh là Name Chart) cũng là một khái niệm quan trọng trong Thần số học Numerology. Dựa theo phân tích biểu đồ tên tiếng Anh theo thần số học, bạn sẽ luận giải rõ hơn về Lý trí – nền tảng – logic; Tình cảm – cảm xúc; Sáng tạo – ý tưởng.
Vậy những màu lens nào sẽ phù hợp với con số 4 chủ đạo, cùng Lens Xoắn tham khảo nha!
Đây là người mang một trường năng lượng tâm linh mạnh mẽ và có tiềm năng phi thường để phát triển nhận thức ở Thể Siêu thức.
- Tiềm năng nhận thức phi thường.
- Hướng đến sự tinh tế và cái đẹp.
- Dành tình cảm sâu đậm cho gia đình, bạn bè.
Phần lớn những người Số 11 lại không đủ khả năng phát huy tiềm năng phát triển nhận thức ở Thể Siêu Thức.
Vậy những màu lens nào sẽ phù hợp với con số 4 chủ đạo, cùng Lens Xoắn tham khảo nha!
Người mang số 8 chủ đạo là người luôn luôn độc lập và coi đó là một yếu tố quan trọng nhất trong cuộc sống. Họ có thể là những người khá phức tạp với cá tính mạnh, sức mạnh và trí tuệ hơn người.
- Coi trọng độc lập, tự chủ.Số chủ đạo 8 khó biểu đạt lòng biết ơn và sự trân trọng đối với người khác.
số 4: Thực tế và nguyên tắc: Xám đậm - thể hiện sự trầm ổn, nguyên tắc và đáng tin cậy, phù hợp với người có tính cách thực tế, nghiêm túc và cẩn trọng.
Người số 5 thường có khuynh hướng cố gắng thoát khỏi sự trói buộc. Họ nhạy cảm, muốn sự tự do trong việc bày tỏ cảm xúc. Người này sẽ khó làm việc theo giờ giấc quy định. Họ có trực giác rất tốt, với cảm xúc sâu sắc và tư duy nghệ thuật mạnh mẽ.
- Có óc nghệ thuật và "máu lãng du".
- Nhạy cảm, bày tỏ cảm xúc tốt.
Một số thuật ngữ thường thấy trong nhân số học tiếng Anh là gì?
Nếu muốn tìm hiểu bộ môn Thần số học (Nhân số học) Numerology cũng như có thể “đọc vị” các con số thì bạn cần phải nghiên cứu rất nhiều nhưng chung quy có thể gom lại mấy chi tiết cơ bản sau: Con số chủ đạo, Biểu đồ ngày sinh, Biểu đồ tên, Bốn đỉnh cao của một đời người, Năm cá nhân của mỗi người, Ba bản thể.
Dưới đây là tên tiếng Anh của các khái niệm này mà bạn có thể tham khảo:
Số 5: Tự do và nhạy cảm: Nâu nhạt - mang lại vẻ tự nhiên và nhẹ nhàng, giúp người số 5 thoải mái, phóng khoáng nhưng vẫn giữ được sự tinh tế và giàu cảm xúc
Đây là con số của người giỏi trong rất nhiều lĩnh vực sáng tạo. Họ mang một trọng trách lớn trong cuộc sống với sự tận tâm sâu sắc.
- Có trách nhiệm với cuộc sống.
- Khả năng sáng tạo vô tận.Người số 6 thường bị gánh nặng trách nhiệm làm cho bất an và lo lắng, và dễ mắc kẹt trong áp lực căng thẳng.
Vậy những màu lens nào sẽ phù hợp với con số 4 chủ đạo, cùng Lens Xoắn tham khảo nha!
Nét độc đáo ở người số 7 là họ muốn học hỏi theo cách riêng của mình. Họ khát khao được học bằng cách tự trải nghiệm.
- Thích chia sẻ kinh nghiệm bản thân cho người khác.
- Dễ nổi loạn, không theo nguyên tắc.
Người Số 7 thường phải hy sinh ít nhất một trong ba khía cạnh của cuộc sống: sức khỏe, tiền tài, tình yêu.
Con số chủ đạo tiếng Anh là gì?
Con số chủ đạo trong thần số học có tên tiếng Anh là Your Ruling Number, là con số xâu chuỗi toàn bộ cuộc sống của bạn từ khi sinh ra cho đến lúc qua đời. Đồng thời, con số này còn tiết lộ rất nhiều điều về cuộc sống của bạn gồm: tính cách, ngành nghề phù hợp, những năm thuận lợi, không thuận lợi,…. Bên cạnh đó, con số chủ đạo gồm: 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 22/4.
Thần số học tiếng Anh là gì?
Thần số học tiếng Anh viết là Numerology, là một bộ môn khoa học chuyên nghiên cứu về những con số trong ngày sinh hoặc tên gọi của mỗi người có tác động “sóng rung” ra sao đến đời sống người đó. Thần số học Numerology được nhà toán học nổi tiếng Pythagoras khởi xướng từ cách đây 2 600 năm và cho đến bây giờ vẫn được những người nối nghiệp tiếp tục nghiên cứu để giúp ích cho cuộc sống hiện tại.
Ngoài ra, bạn cũng có thể xem Nhân số học tương tự như Nhân tướng học, Nhân trắc học, tức là một phương pháp nhận dạng tính cách, số phận con người thông qua giải mã những con số.
➡️Như vậy chúng ta có thể phần nào hình dung ra rằng Thần số học trong tiếng Anh là một bộ môn phổ biến, có tính lâu đời tại các nước phương Tây, là một công cụ đắc lực trong việc luận giải tương lai con người.
Ba bản thể tiếng Anh là gì?
Một khái niệm không thể bỏ qua trong Nhân số học Numerology đó chính là Ba bản thể (tiếng Anh viết là Three Aspects Of Self). Thông qua phân tích 3 phạm trù này sẽ giúp ta hiểu rõ hơn về nhận thức, bản chất tự nhiên của một con người. Theo đó, ba bản thể đó là:
Trên đây là một số kiến thức cơ bản về Thần số học Tiếng Anh (Nhân số học) Numerology mà bạn có thể tham khảo. Để cập nhật thêm nhiều kiến thức bổ ích khác một cách thường xuyên và nhanh chóng, bạn hãy cài đặt ngay ứng dụng điện thoại Thăng Long Đạo Quán. Ứng dụng ngoài cung cấp thông tin còn hỗ trợ miễn phí các công cụ tra cứu (lập lá số Bát tự hay Tử vi, xem tuổi, tìm vật phẩm cải vận bổ khuyết, xem ngày tốt xấu,…).
Tải ngay ứng dụng Thăng Long Đạo Quán theo Android hoặc iOS tại đây:
Thường trực Ban Bí thư Võ Văn Thưởng vừa ký ban hành Kết luận của Bộ Chính trị về danh mục chức danh, chức vụ lãnh đạo và tương đương của hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở.
Theo kết luận của Bộ Chính trị, chức danh, chức vụ lãnh đạo và tương đương của hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở có 3 nhóm.
Một là, nhóm chức danh, chức vụ lãnh đạo chủ chốt và lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc. Trong đó, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Quốc hội là 4 chức danh, chức vụ lãnh đạo chủ chốt.
Lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc gồm: Thường trực Ban Bí thư; Ủy viên Bộ Chính trị; Ủy viên Ban Bí thư; Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam; Chánh án TAND Tối cao, Viện trưởng VKSND Tối cao, Phó Chủ tịch nước, Phó Thủ tướng, Phó Chủ tịch Quốc hội.
Hai là, nhóm chức danh, chức vụ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý. Chức danh, chức vụ thuộc diện Bộ Chính trị quản lý chia thành 3 bậc.
Bậc 1 gồm: Ủy viên Trung ương chính thức (Ủy viên Trung ương dự khuyết đang đảm nhiệm vị trí công tác nào thì được xác định vị trí thứ bậc và hưởng các chế độ, chính sách theo chức vụ đang công tác); Trưởng ban đảng ở Trung ương; Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; Tổng Biên tập Báo Nhân Dân, Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản; Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Bậc 2 gồm: Bộ trưởng và thủ trưởng cơ quan ngang bộ; Chủ nhiệm Văn phòng Chủ tịch nước; Tổng Kiểm toán Nhà nước; Trưởng tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương; Phó Chủ tịch - Tổng Thư ký Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam; Bí thư tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy khối trực thuộc Trung ương; Phó Bí thư Thành ủy Hà Nội, Phó Bí thư Thành ủy TP.HCM; Chủ tịch HĐND, UBND TP Hà Nội, TP.HCM; Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương.
Bậc 3 gồm: Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam; Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học công nghệ Việt Nam; Chủ tịch Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp: Tổng Giám đốc Thông tấn xã Việt Nam; Tổng Giám đốc Đài Tiếng nói Việt Nam; Tổng Giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam.
Các chức danh do Ban Bí thư quản lý cũng chia thành 3 bậc.
Bậc 1 gồm: Phó trưởng ban, cơ quan đảng ở Trung ương; Phó Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; Phó Tổng Biên tập Báo Nhân Dân; Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản; Phó Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam; Phó Chủ tịch Hội đồng Dân tộc; Phó Chủ nhiệm các Ủy ban của Quốc hội; Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội; Phó Chánh án TAND Tối cao: Phó Viện trưởng VKSND Tối cao.
Bậc 2 gồm: Thứ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan ngang bộ; Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chủ tịch nước; Phó Tổng kiểm toán Nhà nước; Phó trưởng các tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương; Bí thư thường trực Trung ương Đoàn; Phó bí thư tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy khối trực thuộc Trung ương; Chủ tịch HĐND, Chủ tịch UBND tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương; Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Trung ương; Giám đốc Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật; Chủ tịch các hội quần chúng do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ ở Trung ương; Trợ lý các lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước; Trợ lý Thường trực Ban Bí thư.
Bậc 3 gồm: Viện trưởng Viện Nghiên cứu lập pháp thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội, Giám đốc Đại học Quốc gia TP.HCM; Tổng Giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam; Trưởng Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh; Chủ tịch Ủy ban giám sát tài chính quốc gia; Phó Chủ tịch Ủy ban quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp; Thẩm phán TAND Tối cao, Kiểm sát viên VKSND Tối cao.
Ba là, nhóm chức danh, chức vụ thuộc diện cấp ủy, tổ chức đảng, lãnh đạo cơ quan, đơn vị quản lý.
Nhóm này gồm có các cấp: Tổng cục trưởng và tương đương; Phó Tổng cục trưởng và tương đương; Vụ trưởng và tương đương; Phó Vụ trưởng và tương đương; Trưởng phòng và tương đương; Phó trưởng phòng và tương đương; cán bộ xã, phường, thị trấn.
Bộ Chính trị yêu cầu, các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị trực thuộc Trung ương quán triệt và thực hiện Kết luận của Bộ Chính trị; chịu trách nhiệm tiếp tục rà soát, sắp xếp các chức danh, chức vụ theo phân cấp quản lý bảo đảm đồng bộ, thống nhất với danh mục do Bộ Chính trị ban hành. Đồng thời bảo đảm sự kế thừa, ổn định của tổ chức bộ máy, chỉ điều chỉnh những vị trí thật sự bất hợp lý hoặc chưa được sắp xếp; một người đảm nhiệm nhiều chức vụ thì lấy chức vụ cao nhất đề xác định chức danh lãnh đạo.
Quân ủy Trung ương, Đảng ủy Công an Trung ương xây dựng đề án danh mục chức danh, chức vụ lãnh đạo, quản lý, chỉ huy trong Quân đội nhân dân và Công an nhân dân bảo đảm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của Quân đội, Công an; đồng bộ, thống nhất với các chức danh, chức vụ lãnh đạo và tương đương trong hệ thống chính trị. Ban Tổ chức Trung ương phối hợp với các cơ quan liên quan thẩm định, trình Bộ Chính trị xem xét, quyết định nội dung này.
Đảng đoàn Quốc hội, Ban cán sự đảng Chính phủ và các cơ quan liên quan xây dựng, hoàn thiện hệ thống luật pháp và chính sách về vị trí công tác, số lượng chức danh, chức vụ cán bộ và bảng lương chức vụ đồng bộ với bảng danh mục chức danh, chức vụ lãnh đạo và tương đương trong hệ thống chính trị do Bộ Chính trị ban hành./.
Nếu biết được mỗi người có cái nghiệp riêng thì chúng ta có thái độ sống hết sức dung hòa, không thắc mắc, không trách cứ những hoàn cảnh khó khăn, rắc rối mà người trong cuộc không thể giải quyết dứt khoát được, vì nghiệp riêng của họ
Phật tử chùa Thiên Khánh hỏi: Kính thưa thầy, trong nhà Phật có từ ngữ nghiệp, vậy nghiệp là gì? Nghiệp phát khởi từ đâu? Và tu có thể chuyển được nghiệp xấu? Xin thầy chỉ dạy.
Thầy trả lời: Nghiệp nói cho đủ là nghiệp quả báo ứng, tức đã gây nhân thì có kết quả tương xứng, và quả đến sớm hay muộn khi hội đủ nhân duyên, hội đủ điều kiện. Nghiệp là năng lực, là hành động từ những suy nghĩ rồi phát xuất ra lời nói có cố ý, cố tâm, được lặp đi lặp lại nhiều lần, lâu ngày trở thành thói quen. Chính thói quen đó có sức mạnh chi phối, cuốn hút chúng ta làm theo. Nói đến nghiệp là nói đến sự toàn quyền quyết định của chúng ta, không ai có thể ban phước giáng họa và định đoạt, sắp đặt, mà chính ta là chủ nhân ông của bao điều họa phúc.
Nghiệp là những hành động có chủ ý, sẽ đưa đến những quả báo tương xứng trong hiện tại và mai sau. Nghiệp nói cho đủ gọi là nghiệp quả báo ứng được tạo ra từ thân, miệng, ý của chính mình. Bởi vì nghiệp nhân chúng ta đã gây thì nghiệp quả phải đến chỉ sớm hay muộn mà thôi. Là người Phật tử chân chính, chúng ta phải thận trọng trong từng ý nghĩ lời nói, cho đến hành động do mình tạo ra trong từng phút, từng giây… Ta phải thường xuyên xem xét, quán chiếu, soi sáng lại chính mình để không vấp phải lỗi lầm đáng tiếc.
Nghiệp là thói quen huân tập tạo thành sức mạnh chi phối tất cả mọi sinh hoạt trong cuộc sống của con người, từ khi mở mắt chào đời, cho đến khi nhắm mắt và những đời sống kế tiếp. Nếu người Phật tử tu mà không hiểu rõ về nghiệp thì khó mà ứng dụng tu hành để đạt được tới chỗ an lạc, hạnh phúc trọn vẹn.
Chính chúng ta là chủ nhân tạo nghiệp, và cũng chính chúng ta là chủ nhân chịu thọ quả báo. Chúng ta thừa nhận nghiệp do mình tạo ra, được sinh ra từ nghiệp, và bị nghiệp trói buộc trở lại. Bởi nghiệp là hành động, là thói quen, nên chúng ta có thể thay đổi được, chỉ cần mọi người cố gắng, nỗ lực và kiên trì, bền chí.
Chữ nghiệp trong nhà Phật không có nghĩa một chiều, hễ nói nghiệp thì phải là điều xấu, điều ác. Kỳ thật, nghiệp cũng có xấu và cũng có tốt, nghiệp cũng có nghiệp thiện và nghiệp ác. Nghiệp tuy không có hình tướng cụ thể, nhưng nghiệp có khả năng chi phối sai sử làm cho con người khốn khổ và si dại vì nó.
Báo là đền trả một cách công bằng và xứng đáng, không thiên vị, không sai lệch, không tiêu mất. Ai có cố ý, cố tâm hành động hoặc tốt, hoặc xấu sẽ gặt quả một cách bình đẳng. Nghiệp đã gieo dù trăm kiếp, ngàn đời vẫn không mất, khi hội đủ nhân duyên quả báo hoàn tự hiện.
Ta lo lắng làm sao cho có thật nhiều tiền và tìm đủ mọi cách bảo bọc, che chở cho những người thân thuộc mà quên rằng, những gì ta đang làm đến khi chết không mang theo được một thứ gì dù là cái nút áo cũng bị cắt lại.Xưa có một gia đình nọ, người vợ thì sống hiền lương đạo đức, biết bổn phận và trách nhiệm, siêng năng làm việc, nuôi dạy con cái đàng hoàng, ngược lại ông chồng thì suốt ngày bê tha, rượu chè, cờ bạc.
Mỗi lần ông cờ bạc thua về nhà là ông kiếm chuyện chửi mắng, đánh đập để bà phải xì tiền ra đưa cho ông. Con cái, người thân, láng giềng, hàng xóm, ai thấy cũng đau lòng, thắc mắc tại sao bà không chịu ly dị cho rồi, cứ để ông hành hạ khổ sở như thế? Nhưng khi hỏi bà thì bà nói không thể ly dị vì bà còn thương, sợ ông khổ. Có nhiều gia đình có những đứa con ngỗ nghịch, bất hiếu, phá gia sản, cầm cố nhà cửa, làm hại đủ thứ. Vậy mà gia đình vẫn thương, không thể từ bỏ, vì cha mẹ có cái nghiệp riêng với con cái. Để thấy cái nghiệp riêng của người, mình là kẻ ngoài cuộc không có nghiệp đó thì không thể chấp nhận, không chịu nổi. Còn người đã có nghiệp, có nợ nần với nhau, dù bị chửi mắng, đánh đập, phá phách, đối xử tàn tệ, người ta vẫn chấp nhận chung sống, không thể xa rời nhau được.
Như vậy, nếu biết được mỗi người có cái nghiệp riêng thì chúng ta có thái độ sống hết sức dung hòa, không thắc mắc, không trách cứ những hoàn cảnh khó khăn, rắc rối mà người trong cuộc không thể giải quyết dứt khoát được, vì nghiệp riêng của họ. Cho nên, nghiệp theo ta như bóng với hình từ đời này sang kiếp nọ, đến khi hết nợ nần với nhau mới thôi.
Ấy thế mà, đa số chúng ta lại hay lãng quên mà giống như ông trưởng giả, chỉ lo lắng, quan tâm đến ba bà vợ trước, chờ khi quả khổ đến mới than vãn, trách móc, đổ thừa tại, bị, thì, là…, rồi kêu Phật trời cứu cho. Trời Phật nào giúp cho ta được chỗ này, bụng làm thì dạ chịu chứ cầu cứu ai thế cho mình được dù là thân thương như cha mẹ. Ta có niềm tin, ta có hiểu biết, ta có quán chiếu, ta có trái tim, mà không ai chịu vận dụng để thừa hưởng cái tinh hoa đó, ta cứ suốt ngày chạy theo công danh sự nghiệp, gia đình, người thân, cho đến khi ra đi chỉ mang theo nghiệp tốt hoặc xấu mà thôi. Tốt thì đi ba đường trên hưởng phước báo cõi trời, người và thần A Tu La, xấu thì bị đọa ba đường dưới địa ngục, quỷ đói và súc sinh, chịu nhiều ngu si và khổ đau vô cùng.
-Biệt nghiệp là nghiệp riêng của từng cá nhân chúng sinh. Cộng nghiệp là nghiệp chung của nhiều chúng sinh. Cùng sinh ra trong một gia đình, sống chung một đất nước, nói cùng một ngôn ngữ, người thích cờ bạc thì chỉ muốn giao du với người chơi cờ bạc, còn kẻ ham rượu chè thì lân cận ăn chơi với người uống rượu. Người thích đi chùa tụng kinh niệm Phật thì kết bạn với người đi chùa tụng kinh niệm Phật. Như vậy, cộng nghiệp đưa đẩy con người thân cận, kết bạn với nhau và biệt nghiệp khiến chúng ta có dáng mạo, tánh tình, năng khiếu và trí tuệ khác nhau.
-Nghiệp: là dịch nghĩa chữ Karma tiếng Phạn, chỉ hành động tạo tác được lập đi lập lại nhiều lần lâu ngày trở thành thói quen của mỗi người. Nghiệp có nghiệp thiện, nghiệp ác, nghiệp chung, nghiệp riêng, định nghiệp và bất định nghiệp... Nghiệp thiện là hành động lành đem lại sự an vui hạnh phúc cho tất cả chúng sinh. Nghiệp ác là hành động dữ làm đau khổ cho tất cả chúng sinh. Định nghiệp là hành động lành hay dữ có chủ tâm của ý thức mà tạo thành nghiệp quyết định. Bất định nghiệp là hành động tốt hay xấu mà không có ý thức cố tâm, nên thành nghiệp không quyết định (như người bệnh tâm thần).
b-Báo: là đền trả một cách công bằng, không sai chạy, không tiêu mất khi đủ nhân duyên. Báo chia làm ba thứ: hiện báo, sinh báo và hậu báo.
-Hiện báo là quả báo trong hiện tại, do những hành động tốt hay xấu mình đã làm ra.
-Sinh báo là quả báo mình phải chịu trong đời sau, do hành động tốt hay xấu của ba nghiệp, đến đời sau mới chịu quả báo.
-Hậu báo là qua nhiều đời kiếp mới chịu quả báo.
Tu là chuyển nghiệp: Người đã tạo nghiệp thì phải nhận quả báo tương ứng. Nhưng nếu người đó biết ăn năn, tu tập và làm những nghiệp thiện để bù đắp lại thì quả báo sẽ xoay chuyển, có thể giảm nhẹ đi. Thế cho nên Phật nói tu là chuyển nghiệp.
Từ lâu, chúng ta thường nghe nói gieo nhân nào thì chịu quả nấy, có nghĩa là ai tạo nhân gì thì phải thọ quả báo đúng như vậy, như trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu.
Nhưng, nếu trước kia khi chưa biết tu ta đã lỡ gây nhân xấu ác, thì bây giờ chúng ta tu có được lợi íchgì, vì nhân nào quả nấy? Tu là để chuyển hóa nỗi khổ niềm đau, thành an vui hạnh phúc, nếu gây nhân nào phải chịu quả nấy thì tu làm sao hết khổ? Nếu chúng ta hiểu theo nghĩa đơn giản, thông thường thì sẽ thối Bồ-đề tâm, vì có tu cũng chẳng chuyển được quả xấu. Lý nhân quả của đạo Phật rất đa dạng và phức tạp, nhưng không cố định một chiều mà có thể thay đổi được, tùy theo khả năng tu của chúng ta.
Trong Kinh A Hàm Phật dạy: “Người gây nhân bất thiện, trước hoặc sau họ biết tu thân, tu giới, tu tâm thì quả sẽ đổi thay. Nếu người gây nhân bất thiện mà không biết tu thân, tu giới, tu tâm thì gây nhân nào sẽ thọ quả nấy. Đó là nhân nào quả nấy và gây nhân mà biết chuyển nghiệp thì quả cũng đổi thay”.
Nói xong, Phật đưa ra một ví dụ để chứng minh nhân quả xấu có thể thay đổi được, một nắm muối nếu hòa tan trong ly nước lạnh thì ly nước ấy sẽ mặn không thể uống được. Cũng nắm muối đó, nếu hòa tan trong bình nước lớn có sức chứa khoảng hơn trăm lít, thì nước trong bình sẽ uống được, nhưng vị nước hơi mặn mặn. Và nếu nắm muối đó được hòa tan trong một ao nước lớn gấp năm mười lần bình kia, nước sẽ không còn mặn, chúng ta có thể dùng xài bình thường.
Nhân xấu ác là dụ cho vị mặn của nắm muối hòa tan trong ly nước nhỏ thì quả cũng mặn không giải khát được. Nếu nhân mặn của mắm muối hòa tan trong bình nước lớn hơn gấp trăm lần thì vị mặn sẽ bị loãng ra, nước có thể tạm dùng giải khát được. Nếu nhân mặn của mắm muối hòa tan trong ao nước lớn, thì nắm muối không thấm vào đâu, nước có thể dùng xài bình thường.
Cũng lại như thế, người mà không biết tu thân, tu giới, tu tâm khi tạo nhân xấu ác thì trả quả ác nguyên vẹn dụ như nắm muối được hòa tan trong ly nước nhỏ, bởi vì lượng muối và nước tương đồng nên không giải khát được.
Nếu người biết tu thân, tu giới thì dụ như nắm muối tan trong bình nước lớn, tuy có chút vị mặn nhưng cũng có thể tạm dùng qua ngày được.
Còn nếu chúng ta biết tu thân, tu giới, tu tâm dụ như nắm muối được hòa tan trong ao nước to, bởi muối quá ít so với lượng nước quá nhiều, nên chúng ta có thể dùng xài bình thường.
Chính vì vậy, khi lỡ làm ác mà chúng ta biết tu thân, thì nhân quả xấu, sẽ được chuyển mà không thọ đúng như khi gieo nhân. Nếu khi gây nhân ác chúng ta biết tu thân, tu giới thì sẽ chuyển nghiệp thọ quả báo nhẹ hơn. Còn khi gây nhân ác mà biết tu thân, tu giới, tu tâm thì gần như chuyển quả xấu hoàn toàn. Cho nên tu là chuyển nghiệp, là chuyển hóa khổ đau thành an vui, hạnh phúc.
Nếu hiện tại mà chúng ta tu vẫn trả quả xấu như cũ, thì tu như thế có lợi ích gì? Cho nên chúng ta phải biết, tu có thể chuyển quả xấu, tuỳ theo khả năng tu nhiều hay ít mà quả sẽ thay đổi. Khi biết tu thì quả liền chuyển, không cố định như mọi người thường lầm tưởng số phận đã an bài, không thể thay đổi được. Vậy thế nào là tu thân, tu giới, tu tâm?
Tu thân là nơi thân này không làm các việc xấu ác, tất cả mọi việc xấu ác dù lớn hay nhỏ chúng ta đều phải tránh, còn việc gì có lợi ích cho nhiều người thì ta phải cố gắng làm, như vậy là ta biết tu thân. Tu thân chỉ đơn giản là như thế, ai cũng có thể tu được.
Còn tu giới là sao? Người Phật tử tại gia, sau khi thọ giới quy y rồi, Phật dạy phải giữ tối thiểu từ một giới cho đến năm giới:
1- Không sát sinh hại vật: Trước tiên là không được giết người, vì ai cũng tham sống sợ chết, nếu giết người thì mạng phải đền mạng theo luật pháp xã hội. Đó là lẽ công bằng về nhân quả giết hại.
Ngoài ra, chúng ta phải hạn chế tối đa đối với những con vật lớn như trâu bò heo chó gà vịt…. cho đến khi nào ta giữ được hoàn toàn, vì giới này chủ yếu là cấm người xuất gia, còn người tại gia chính yếu là không được giết người.
Giết hại sẽ thành tội bằng ba cách: Một là tự tay mình giết. Hai là xúi bảo người khác giết. Ba là hoan hỷ vui vẻ khi nghe thấy người khác giết hại. Như thế là phạm tội sát sinhhại vật. Vì tự tay chúng ta giết là thân tạo nghiệp xấu ác, xúi bảo người giết là miệng tạo nghiệp xấu ác, khi nghe thấy người khác giết, chúng ta sinh tâm vui mừng là ý tạo nghiệp ác, nên Phật chế giới để giúp quý Phật tử không phạm tội giết hại.
2- Không được giam tham trộm cướp lường gạt của người khác: Từ một cây kim cho tới ngọn cỏ nếu không được sự cho phép của người mà ta tự lấy là phạm tội trộm cướp. Trộm là lén lấy, cướp là công khai giành giựt lấy trước mặt mọi người. Cho nên trộm hay cướp giựt, hoặc lừa gạt để mà lấy, cho đến trốn thuế cũng đều gọi là trộm cướp.
3- Không tà dâm: Người Phật tử khi lớn khôn có quyền lấy vợ lấy chồng theo luật phápnhà nước cho phép tuổi từ 18 trở lên, nếu dưới 18 tuổi mà tự ý lấy nhau là phạm luật sẽ bị tội, tùy theo mức độ nặng nhẹ mà có biện pháp xử lý thích hợp.
Nếu sau khi lập gia đình rồi mà mình còn đi ngoại tình với người khác là phạm tội tà dâm. Vì đó là nguyên nhân gây mất hạnh phúc gia đình người khác, làm cho gia đình tan vỡ, là nhân gây đau khổ cho mình và gia đình người, chính vì lòng từ bi thương xót chúng ta mà Phật cấm.
4- Không nói dối hại người: Nói dối có bốn trường hợp phạm tội.
Chuyện có nói không, chuyện không nói có, cốt để lừa gạt lấy tiền của người khác. Nói lời nặng nề hoặc mắng chửi, vu oan giá họa cho người. Dùng lời nói ngọt ngào để dụ dỗngười khác. Nói đâm thọc làm cho đôi bên bất hòa thù oán nhau, đến người này nói xấungười kia và ngược lại.
Đó là những trường hợp nói dối thì phạm tội theo luật nhân quả công bằng. Nếu chúng tanói dối để giỡn chơi, hoặc để trấn an người đang bệnh khổ, hoặc để cứu mạng người thì không phạm tội.
5- Không uống rượu say sưa dẫn đến mất lý trí hiếp dâm người là có tội: ngoài ra các thứ như á phiện, xì ke, ma túy đều không nên dùng, vì nó là nhân sinh ra bệnh hoạn, bị nghiện không bỏ được, làm cho hao tài tốn của, hủy hoại tài sản một cách nhanh chóng, mất hết lý trí sáng suốt và có thể trong phúc chốc tạo tội trộm cắp hay cướp giựt của người khác để thỏa mãn cơn ghiền. Nhưng, nếu vì lý do bệnh tật, bác sĩ cho phép uống thuốc rượu để trị bệnh thì không phạm giới.
Phật dạy: Người Phât tử chân chính phải giữ gìn năm giới vì lòng từ bi, sợ chúng ta vi phạm thì bị quả báo xấu ác, làm khổ đau cho mình và người khác. Cho nên, nếu ai giữ tròn năm giới thì sẽ được an vui, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ. Đó là chúng ta biết tu giới.
Vậy, chúng ta tu tâm như thế nào?
Tâm ở đây có hai phần tâm vọng và tâm chơn. Tâm vọng là chỉ cho mọi ý niệm xấu ác như tham lam, sân hận, si mê, ganh ghét tật đố... Tu tâm có nghĩa là chuyển hóa những tâm miệm xấu ác trở về cái gốc ban đầu là tâm Phật như như.
Tham thì ai cũng có, và có nhiều loại như tham danh, tham lợi, tham tài, tham sắc, tham ăn uống, tham ngủ nghỉ... Ăn uống là nhu cầu hằng ngày không thể thiếu của con người, nếu ăn dở quá chúng ta sẽ không vui, nếu ăn không no thì ta cũng không chịu, ăn thì muốn cho ngon miệng và cho no đủ. Ngủ thì phải ngủ cho đủ giấc, nếu bắt ta dậy sớm để làm việc thì cảm thấy bực bội khó chịu. Chính vì vậy, chúng ta lúc nào cũng kẹt trong vòng tham muốn quá đáng, đó là căn bệnh thâm căn cố đế của nhiều người. Tu tâm là chúng ta dẹp bỏ lòng tham lam, sân giận và si mê của mình.
Tuy nói là tu thân, tu giới, tu tâm để cho người tu được phần nào đỡ phần đó, chứ thật ra chủ yếu vẫn là tu tâm. Nếu tu tâm không khởi nghĩ làm việc ác thì miệng đâu nói lời khó nghe và thân sẽ không hành động hại người. Như vậy tu tâm vẫn là trên hết, vì tâm là chủ của bao điều họa phúc.
Cho nên nói nhân nào quả nấy là chỉ cho những người không chịu tu, vì họ chấp nhận số phận đã an bài nên càng tạo nghiệp xấu nhiều hơn, người biết tu thì sẽ thay đổi được nhân quả xấu, tùy theo khả năng tu cao hay thấp mà thôi.
Nếu người lỡ nghiện rượu say sưa hay mắng chửi đánh đập vợ con, vì yếu đuối mà không dám chừa bỏ nên cuối cùng bị tan nhà nát cửa, dẫn đến tù tội, do vi phạm luật hôn nhân gia đình. Người có ý chí khi lỡ nghiện rượu rồi được người khác khuyên nhủ, uống rượu có hại sức khỏe, hao tiền tốn của tinh thần không sáng suốt và làm cho vợ con khốn khổ, gia đình không hạnh phúc.
Khi nghe lời khuyên, họ chợt tỉnh và hiểu ra rằng, sự tác hại của uống rượu rất lớn lao mọt khi không làm chủ bản thân, nên từ đó bỏ rượu chè be bét và biết làm ăn đàng hoàng. Tuy lúc mới bỏ hơi khó chịu, hơi vật vã một chút, nhưng ta cố chịu một thời gianrồi sẽ qua, và sống bình thường thoải mái trở lại.
Chúng tôi xin đưa ra một ví dụ để mọi người dễ hiểu, thuở xưa anh Ngang hay chửi bới làm cho anh Nhẫn tức giận. Nhưng vì anh Nhẫn yếu thế hơn nên mới ôm giận trong lòng, mà chờ ngày trả thù. Sau đó anh Ngang hết thời làm ăn bị thất bại, anh Nhẫn lúc này làm ăn được khấm khá hơn trước và làm chủ một công ty nỗi tiếng.
Lúc này anh Nhẫn có cơ hội trả thù nên tìm cách mắng nhiếc hạ nhục anh Ngang trước mặt mọi người, tuy nhiên trong thời gian thất bại anh Ngang hồi tâm quay đầu về Phật pháp, nhờ vậy có chút công phu tu hành.
Anh Nhẫn lúc này cho người đến kiếm chuyện mắng chửi anh Ngang một cách thậm tệ, thiếu điều muốn vu oan giá họa, nhưng lúc này anh Ngang biết tu, nên nghe tiếng chửi như gió thoảng qua tai, không buồn phiền ai hết. Như vậy, nhân quả xấu nếu chúng tabiết tu tâm thì sẽ chuyển được nhân xấu khi trước, đó là một thực tế ít ai ngờ đến.
Ngày xưa nếu chúng ta tạo nghiệp ác, đáng lý ra phải trả bằng sự đánh đập, hay bị tù tội, hoặc bị tai nạn bất ngờ, nhưng nhờ biết tu nên chỉ bị mắng chửi hay bị mất mát chút ít tài sản.
Chúng ta hãy nên nhớ, tu là bỏ ác làm lành, khi bị chuyện mất mát đau thương đến với mình thì ta biết đó là nghiệp quá khứ còn rơi rớt lại, mà vững lòng tin can đảm chấp nhậnchịu đựng, rồi chuyện gì cũng sẽ qua nhờ ta biết buông xả.
Cho nên khi phát tâm tu, nếu gặp người làm khó dễ, chúng ta không nên buồn giận mà phải còn khởi lòng từ bi thương xót họ nhiều hơn, như vậy là ta đã biết cách chuyển nghiệp xấu ác rồi, làm gì có chuyện cố định gieo nhân nào phải thọ quả nấy.
Khi gặp chướng duyên bên ngoài mà chúng ta biết chuyển hóa, không thọ nhận đó là ta biết tu và chuyển nghiệp xấu. Không phải tu là cầu nguyện suông, mà phải có người thử thách để có dịp coi lại mình đã làm chủ được bản thân chưa. Nếu thấy mình còn buồn giận nhiều, là biết ta tu chưa tiến được bao nhiêu.
Tinh thần nhân quả của đạo Phật rất đa dạng và phức tạp, vì nhân quả ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai không phải gây nhân nào chịu quả ấy như nhiều người thường lầm tưởng. Đối với người biết tu thì nhân quả sẽ thay đổi nhiều hay ít tùy theo khả năng tu tập của mỗi người. Cho nên Phật dạy: Tu là chuyển nghiệp phiền não khổ đau, thành an vui hạnh phúc.
Nếu ai biết giữ cho tâm mình được trong sạch, thì khi tham biết mình tham, khi giận biết mình giận, cho đến khi nào chúng ta thấy các tâm niệm xấu ác đã hết và cuối cùng ta xả luôn tâm niệm tốt, dù là niệm Phật hay Bồ-tát, ngay khi ấy thì tâm Phật hiện tiền.
Chúng ta phải nên nhớ bước đầu của tu tâm là buông xả niệm ác trước, kế đến là niệm thiện và trở lại pháp tu trung đạo là sống với tâm Phật sáng suốt mà thường biết rõ ràng, khi thấy chỉ là thấy, khi nghe chỉ là nghe, mũi lưỡi thân ý cũng lại như thế. Đó là ta biết tu tâm, người chưa đủ sức thì phải tu thân, rồi tu giới và cuối cùng là buông xả hết tâm niệm tốt xấu, đúng sai, ta người mà sống với Phật tính sáng suốt của mình.
-Khi hiểu rõ luật nhân quả nghiệp báo, chúng ta sẽ không bị những thứ mê lầm chi phối?
-Không mê tín dị đoan vì biết chính ta là chủ của bao điều họa phúc.
-Không than trách, oán giận thù hằn khi gặp chướng duyên nghịch cảnh, không thấy ai là kẻ thù mà chỉ có người chưa thông cảm với nhau mà thôi.
Trong lĩnh vực thần số học có lẽ mọi người đã quá quen thuộc với thuật ngữ "con số chủ đạo". Đây là một con số nói lên tất cả về con người bạn bao gồm quá khứ, hiện tại và tương lai. Khi cuộc sống càng phát triển và con người càng muốn nhìn trước được tương lai, tiềm năng của bản thân mình thì tìm kiếm ý nghĩa những con số đường đời là đều hết sức quan trọng. Để có thêm nhiều thông tin kiến thức về con số chủ đạo này bạn đừng bỏ qua bài viết vô cùng hấp dẫn và hữu ích dưới đây.
Người có số chủ đạo là số 2 có tính cách vị tha, chan hòa, thích sống hòa bình vui vẻ không tham lam danh vọng, địa vị. Khi tham gia hoạt động tập thể, bạn rất hòa đồng, đem lợi ích tập thể lên trên lợi ích cá nhân.
Người số 2 thần số học có một trực giác rất tốt, vì thế bạn có xu hướng suy nghĩ kỹ lưỡng trước khi đưa ra một quyết định quan trọng nào đó.
Ngoài ra bạn có khả năng hòa giải rất tốt, cách cư xử lễ độ nhẹ nhàng và từ tốn. Bạn tạo cho mọi người một cảm giác an toàn, tin tưởng do đó mà mọi người xung quanh rất hay tìm đến bạn để tâm sự, xin lời khuyên.
Bạn cũng có thể có năng khiếu âm nhạc và nghệ thuật. Nếu không thể phát triển chúng thành nghề nghiệp, bạn có thể dùng nó để giải tỏa căng thẳng, cân bằng cuộc sống.
Tuy nhiên bạn cũng có một điểm yếu chính là sống quá cảm xúc. Khi đối diện với sự đổ vỡ của một mối quan hệ hay một điều bất trắc trong cuộc sống, bạn rất dễ bị rơi vào trạng thái khủng hoảng, tâm trạng rối bời.
Vậy những màu lens nào sẽ phù hợp với con số 2 chủ đạo, cùng Lens Xoắn tham khảo nha!Người có số chủ đạo là số 2 có tính cách vị tha, chan hòa, thích sống hòa bình vui vẻ sẽ phù hợp với những màu lens nhẹ nhàng, tự nhiên.
Mẫu đầu tiên là một trong những mẫu tự nhiên cực kì phù hợp với những người mang số 2 chủ đạo với hiệu ứng thủy tinh tạo cho đôi mắt sự long lanh và trong trẻo. Mẫu Eyeis Melo Brown mang tông màu nâu vàng pha quế tự nhiên phù hợp đeo hàng ngày mà không cần trang điểm, cùng với hạn sử dụng 6 tháng lâu dài với giá siêu tiết kiệm.
Ngoài ra, Mellows Mistic Gray cũng là một sự lựa chọn hoàn hảo cho những bạn nào mang số chủ đạo là 2 với tính cách nhẹ nhàng, chan hòa. Với hạn sử dụng 6 tháng và tông màu tự nhiên phù hợp đeo thường xuyên và lâu dài và dành cho bạn nào thích đổi màu mắt nhẹ nhàng, tự nhiên.Số 3
Đây là số của người thiên về tư duy và lý luận. Người này nếu có đầu óc nhanh nhạy và tư duy linh hoạt sẽ dễ dàng thành công.
- Tư duy tốt, thích lập kế hoạch.